Hàng nguy hiểm là gì? (Phần 2)
Ở phần trước, Sài Gòn Cargo đã mang đến cho các bạn đọc những kiến thức về hàng nguy hiểm, tại sao cần phải khai báo hàng nguy hiểm, trách nhiệm khai báo thuộc về ai, Số UN và các dạng nguy hiểm tiềm tàng trong vận tải hàng hóa. Đặc biệt là trong vận tải hàng không. Hôm nay, Sài Gòn Cargo sẽ tiếp tục mang đến cho quý đọc giả những kiến thức mới về mã IMP, phân loại hàng nguy hiểm và một số mặt hàng được cho là hàng nguy hiểm thường gặp.
Xem thêm: Hàng nguy hiểm là gì? (phần 1)
Mã IMP và 9 nhóm hàng nguy hiểm
Theo IMPG Code, hàng nguy hiểm được phân thành 9 nhóm hàng nguy hiểm dựa trên đặc tính của chúng. Cụ thể:
Nhóm 1: Chất nổ
Chất nổ là những vật liệu hoặc vật phẩm có khả năng bốc cháy hoặc phát nổ nhanh chóng do hậu quả của phản ứng hóa học. Nhóm này bao gồm:
- Các chất dễ nổ, ngoại trừ những chất quá nguy hiểm trong khi vận chuyển hay những chất có nhiều khả năng nguy hại thì được xếp vào loại khác. (Chú ý: các chất mà tự nó không dễ nổ nhưng có thể tạo nên một tầng khí, hơi hay bụi dễ nổ thì không thuộc nhóm 1)
- Vật gây nổ, ngoại trừ những dụng cụ chứa chất gây nổ mà với một khối lượng hay tính chất như thế mà sự vô ý, sự bốc cháy ngẫu nhiên hay bắt đầu cháy sẽ không gây nên biểu hiện nào bên ngoài dụng cụ như văng mảnh, có ngọn lửa, có khói, nóng lên hay gây tiếng nổ ầm ỉ.
- Chất dễ nổ và vật gây nổ không được đề cập trong mục a và b trên đây, được sản xuất theo quan điểm là tạo ra hiệu ứng nổ hay sản xuất pháo hoa tùy theo từng mục đích.
Nhóm 1 được chia thành 6 phân nhóm từ 1.1 đến 1.6 dựa trên mức độ nguy hiểm khi nổ. Phân nhóm 1.1 là những chất có hiểm họa gây nổ cao và 1.6 thì rất ít nhạy nổ.Chất nổ được chia ra thành 6 loại riêng biệt và 13 nhóm tương ứng.
Xem thêm: Korea Air – Tàu bay Airbus 330 của một số hãng hàng không
Nhóm 2: Các chất khí nén, hoá lỏng hay hoà tan có áp
Nhóm này bao gồm những loại khí nén, khí hoá lỏng, khí trong dung dịch, khí hoá lỏng do lạnh, hỗn hợp một hay nhiều khí với một hay nhiều loại hơi của những chất thuộc nhóm khác, những vật chứa các chất khí, như tellurium hexaflouride và bình phun khí có dung tích lớn hơn 1 lít.
Nhóm 2 này bao gồm những chất ở dạng khí mà: Ở 50oC có áp suất hơi lớn hơn 300kPa. Hoàn toàn là khí ở 20oC có áp suất chuẩn là 101,3kPa. Tùy theo trạng thái vật lý khí khi lưu trữ, đóng gói ta có các loại:
- Khí nén: là khí (trừ khi ở trong dung dịch) mà khi đóng vào bình dưới một áp lực để vận chuyển thì cũng vẫn hoàn toàn là khí ở 20oC.
- Khí hoá lỏng: là khí mà khi đóng vào bình để vận chuyển thì có một phần ở dạng lỏng ở nhiệt độ 20oC
- Khí hoá lỏng do lạnh: khí mà khi đóng vào bình vận chuyển thì có một phần lỏng vì nhiệt độ của nó thấp
- Khí trong dung dịch: là khí nén mà khi đóng vào bình vận chuyển thì có thề hoà tan trong dung dịch khá
Nhóm 3: Các chất lỏng dễ cháy
Nhóm 3 bao gồm những chất lỏng có thể bắt lửa và cháy, nghĩa là chất lỏng có điểm chớp cháy nhỏ hơn hay bằng 61oC. Những chất sau đây không nằm trong nhóm 3:
- Những chất lỏng có điểm chớp cháy cao hơn 23oC nhưng thấp hơn 61oC, mà có nhiệt độ cháy cao hơn 104oC hay sôi trước khi đạt đến nhiệt độ cháy. Tiêu chuẩn này không bao gồm những chất lỏng có thể gây cháy, hỗn hợp nước và nhiều sản phẩm dầu mỏ mà những chất này không thực sự là đại diện cho chất nguy hại có khả năng gây cháy.
- Những chất hoà tan ở dạng lỏng chứa ít hơn 24% etanol theo thể tích.
- Bia rượu và những sản phẩm tiêu dùng khác, khi đóng gói thì gói bên trong có dung tích ít hơn 5 lít.
Nhóm 4: Chất rắn. Bao gồm chất rắn dễ cháy, chất rắn tự phản ứng và chất rắn khi tương tác với nước có thể phát ra khí độc
Nhóm 4 đề cập đến các chất, trừ các chất được phân loại là chất nổ, trong điều kiện vận chuyển, dễ cháy hoặc có thể gây cháy hoặc gây cháy.. Nhóm này được phân thành 4 phan loại nhỏ như sau:
- Các chất rắn và chất rắn dễ cháy có thể gây cháy do ma sát.
- Các chất có khả năng cháy tự phát.
- Các chất có tiếp xúc với nước, phát ra khí dễ cháy.
Nhóm 5: Các chất có khả năng oxy hóa
Nhóm 5 được phân thành các nhóm nhỏ sau:
- Tác nhân oxy hoá: Đó là những chất, dù không cháy cũng có thể dễ dàng giải phóng oxy, hay do quá trình oxy hoá có thể tạo nên ngọn lửa đối với bất kỳ chất liệu nào.
- Các Peroxit hữu cơ: Các chất hữu cơ có chứa cấu trúc 2-O-bivalent và có thể được coi là dẫn xuất của hydrogen peroxide. Peroxit hữu cơ là các chất không ổn định nhiệt, có thể trải qua quá trình phân hủy tự gia tốc tỏa nhiệt.
Nhóm 6: Tất cả các loại chất độc hại và được chứng minh là nhiễm trùng
Chất có thể gây độc và gây hại cho bất kỳ cơ thể sống, mô và hệ thần kinh nào..Loại 6 được chia nhỏ hơn, thành:
- Các chất độc hại. Đây là những chất có thể gây tử vong hoặc thương tích nghiêm trọng hoặc gây hại cho sức khỏe con người nếu nuốt phải hoặc hít phải hoặc tiếp xúc với da.
- Các chất truyền nhiễm. Đây là những chất có chứa vi sinh vật sống sót, bao gồm vi khuẩn, virus, rickettsia, ký sinh trùng,…..
Nhóm 7: Các vật liệu phóng xạ
Chất phóng xạ có nghĩa là bất kỳ vật liệu nào có chứa hạt nhân phóng xạ, trong đó cả nồng độ hoạt động và tổng hoạt độ trong lô hàng vượt quá các giá trị được quy định trong mã IMDG. Ngoài ra có những trường hợp cụ thể được quy định không phải là chất phóng xạ trong phụ lục IMPG.
Nhóm 8: Các vật liệu có khả năng bị ăn mòn và xói mòn
Các chất thuộc nhóm 8 (chất ăn mòn) có nghĩa là các chất do tác động hóa học gây ra sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng khi tiếp xúc với mô sống hoặc trong trường hợp rò rỉ, sẽ gây hư hại nghiêm trọng hoặc thậm chí phá hủy, các hàng hoá khác hoặc phương tiện vận tải.
Nhóm 9: Các chất không thể phân loại theo bất kỳ phân loại nào ở trên nhưng vẫn là hàng nguy hiểm
Các chất và vật phẩm không thuộc các lớp khác mà kinh nghiệm đã cho thấy, hoặc có thể cho thấy, là một nhân vật nguy hiểm như vậy mà các quy định trong phần A của chương VII của SOLAS, 1974, được sửa đổi, sẽ được áp dụng; chúng bao gồm các chất được vận chuyển hoặc được cung cấp để vận chuyển ở nhiệt độ bằng. hoặc vượt quá 100 độ C, ở trạng thái lỏng và chất rắn được vận chuyển hoặc được vận chuyển ở nhiệt độ bằng hoặc lớn hơn 240 độ C.
Các chất không thuộc phạm vi điều chỉnh của phần A trong chương VII của Công ước nói trên, nhưng các điều khoản của Phụ lục III của MARPOL 73/78, được sửa đổi, được áp dụng.